bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng
Nếu tài liệu Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án nơi thực tập sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội dung. Hệ thống cung
Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4: Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Công ty KRV và Công ty TFS có ký với nhau Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa, theo đó Công ty TFS sẽ giao
Nhóm chúng tôi lựa chọn bình luận một bản án phúc thẩm về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính, với mong muốn qua những phân tích, bình luận có thể. tiền thuê và phí cho bên A. * Hợp đồng quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn: Hợp đồng
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. BẢN ÁN 380/2022/LĐ-PT NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 21/2022/TLPT-LĐ, ngày 30 tháng 5 năm 2022, về việc: “Tranh
Nhà xuất bản Tư Pháp đã xuất bản cuốn “Bình luận khoa học bản án và án lệ - Tập 1” gồm 696 trang khổ 16 x 24cm của tác giả Tưởng Duy Lượng, nguyên Phó Chánh án TANDTC. Với kinh nghiệm của một chuyên gia, của một cựu thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC, tác giả đã
Site De Rencontre A La Reunion Gratuit. TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B BẢN ÁN 08/2021/KDTM-PT NGÀY 20/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN VÔ HIỆUTrong ngày 5 tháng 11 và ngày 17, ngày 20 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2021/TLPT- KDTM ngày 21/6/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu”.Do bản án kinh doanh thương mại sự sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 23/4/2021 của Toà án nhân dân huyện Tân Yên bị kháng Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 07/2021/QĐ-PT ngày 06/8/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 105/TB-TA ngày 19/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐ-PT ngày 09/9/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 141/TB-TA ngày 07/10/2021; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 47/2021/QĐ-PT ngày 05/11/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 156/TB-TA ngày 02/12/2021 giữa* Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần DA Địa chỉ trụ sở chính số ** đường P, quận Phú Nhuận, thành phố diện theo pháp luật Ông Võ Minh T - Chức vụ Chủ tịch hội đồng quản diện theo ủy quyền ông Ngô Minh S - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên theo Văn bản ủy quyền ngày 29/4/2020 có mặt.* Bị đơn - Ông Tô Văn H, sinh năm 1955 có đơn xin vắng mặt - Bà Khúc Thị T, sinh năm 1957 có đơn xin vắng mặt Đều trú tại phố TQ, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh B.* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập- Cụ Nguyễn Thị H, sinh năm 1942 có đơn xin vắng mặt - Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 có đơn xin vắng mặt Đều trú tại tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh B.* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- Ông Phạm Đình T tức Phạm Văn T, sinh năm 1975 có mặt tại phiên tòa ngày 17/12/2021, vắng mặt tại các phiên tòa khác - Anh Phạm Đình Tr tức Phạm Văn Tr, sinh năm 1995 vắng mặt Đại diện theo pháp luật của anh Tr Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 có đơn xin vắng mặt Nơi trú tại tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh Anh Phạm Đình B, sinh năm 1996 vắng mặt - Ông Phạm Đình T, sinh năm 1980 có đơn xin vắng mặt - Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1985 có đơn xin vắng mặt - Chị Phạm Thị D, sinh năm 1983 có đơn xin vắng mặt Đều trú tại tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh Ông Phạm Đình Đ, sinh năm 1963 có đơn xin vắng mặt - Ông Phạm Đình T, sinh năm 1965 có đơn xin vắng mặt Đều trú tại tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh Bà Phạm Thị L, sinh năm 1960 vắng mặt Nơi cư trú số nhà 61, tổ 17, phường H, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Bà Phạm Thị T, sinh năm 1972 vắng mặt Nơi cư trú tổ 18, phường H, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Văn phòng công chứng Nguyễn Tư K Địa chỉ số **, phố M, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh diện theo pháp luật Ông Nguyễn Tư K – Trưởng Văn phòng công chứng Vắng mặt.* Người kháng cáo Nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA do ông Ngô Minh S - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên đại diện theo Văn bản ủy quyền ngày 29/4/2020.* Kháng nghị số 01//QĐKNPT – VKS - KDTM ngày 7/5/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân DUNG VỤ ÁNNguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA do ông Ngô Minh Sang - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên trình bày* Ngày 22/11/2012 Ngân hàng thương mại cổ phần DA gọi tắt là Ngân hàng – Chi nhánh B - Phòng giao dịch huyện Tân Yên và ông Tô Văn H cùng vợ là bà Khúc Thị T có ký hợp 2 hợp đồng tín dụng số 126/NT và 127/NT. Hợp đồng tín tụng số 126 /NT có hạn mức tín dụng là đồng, mục đích sử dụng bổ sung vốn kinh doanh, thời hạn vay của hạn mức tín dụng là 5 năm từ ngày 22/11/2012 đến ngày 22/11/2017. Hợp đồng tín dụng số 127 /NT có hạn mức tín dụng là đồng, mục đích sử dụng bổ sung vốn kinh doanh, thời hạn vay của hạn mức tín dụng là 5 năm từ ngày 22/11/ đảm bảo cho các khoản vay theo các hợp đồng tín dụng trên, Ngân hàng và vợ chồng ông H, bà T cùng với bên có tài sản thế chấp đã ký 02 hợp đồng thế chấp- Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 127/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 gọi tắt là HĐTC số 127; bên thế chấp là cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc; tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 838,4m2 đất trong đó có 360m2 đất ở, 478,4m2 đất vườn tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất viết tắt là GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng tức Phạm Đình Trọng.- Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 126/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 gọi tắt là HĐTC số 126; bên thế chấp là ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng tức Phạm Đình Thưởng.* Căn cứ vào các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nói trên, Ngân hàng TMCP DA -chi nhánh Bắc Giangvà ông H, bà T đã ký 03 hợp đồng vay vốn cụ thể- Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, ông H, bà T vay số tiền là đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 22/11/2012 đến ngày 22/05/2013. Lãi suất trong hạn là 15%/ năm, lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, ông H, bà T vay số tiền là đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 08/12/2012 đến ngày 08/06/2013. Lãi suất trong hạn là 15%/ năm, lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là đồng - Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013, ông H, bà T vay số tiền là đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 27/4/2013 đến ngày 27/10/2013. Lãi suất trong hạn là 14%/ năm còn lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là đồng.* Quá trình thực hiện hợp đồng cụ thể như sau- Hợp đồng vay vốn số K0242/1 tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả được đồng tiền gốc và đồng tiền lãi. Số tiền gốc nợ là đồng và tiền lãi quá hạn là Hợp đồng vay vốn số K0254/1 tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả được đồng tiền gốc và đồng tiền lãi. Số tiền nợ gốc là 0 đồng, số tiền lãi quá hạn là Hợp đồng vay vốn số K0292/1 tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả đồng tiền gốc và đồng tiền lãi. Số tiền nợ gốc 0 đồng, tiền lãi trong hạn là đồng và tiền lãi quán hạn là diện Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á yêu cầu ông H và bà T T toán đồng nợ gốc, đồng nợ lãi tính đến ngày 23/4/2021; lãi phát sinh kể từ sau ngày 23/4/2021 đến khi T toán xong toàn bộ dư nợ. Trường hợp ông H, bà T không trả được nợ thì đề nghị xử lý tài sản thế chấp theo quy đơn ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T trình bày ông bà xác nhận năm 2012 có vay vốn của Ngân hàng TMCP DA- chi nhánh B theo hợp đồng tín dụng số 126/NT ký ngày 22/11/2012 và hợp đồng tín dụng số 127/NT ngày 22/11/2012 với hạn mức vay là đồng. Cùng ngày, giữa vợ chồng ông bà, cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc, bà H, ông Thưởng với đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên có ký 02 hợp đồng thế chấp số 126 và 127. Tài sản bảo đảm theo hai hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam theo GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ cụ Phạm Đình Trọng tức Phạm Văn Trọng và quyền sử dụng đất tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam theo GCNQSDĐ số AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm VănThưởngtức Phạm Đình Thưởng.Sau khi ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp thì đại diện Ngân hàng DA – chi nhánh B và vợ chồng ông đã ký 03 hợp đồng vay vốn với tổng số tiền vay là đồng dựa vào hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp đã ký tại phòng giao dịch Tân Yên là không đúng quy định của pháp luật. Ông bà xác định hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp để đảm bảo khoản tiền vay của vợ chồng ông bà tại phòng giao dịch Tân Yên chứ không đảm bảo khoản vay tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA- chi nhánh B nên ông bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 126 và số 127 ngày 22/11/2012 là vô với tổng số nợ gốc và nợ lãi theo 3 hợp đồng vay vốn nêu trên, ông bà đồng ý trả nhưng đề nghị Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B miễn giảm lãi do ông bà tuổi đã cao.* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập- Cụ Nguyễn Thị H trình bày cụ là vợ của cụ ông Phạm Đình Trọng. Gia đình cụ có thửa đất số 290, tờ bản đồ số 05 , rộng 838,4m2gồm 360m2 đất ở và 478,4m 2 đất vườn tại thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam, huyện Tân Yên đã được cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003. Ngày 22/11/2012, vợ chồng cụ đã ký hợp đồng thế chấp số 127/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA –Chi nhánh B phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại Ngân hàng thương mại cổ phần DA -phòng giao dịch Tân Yên. Khi thế chấp, trên diện tích đất có nH cấp bốn 05 gian, nH bếp, chuồng lợn, nH vệ sinh. Từ sau khi thế chấp không xây dựng thêm gì. Cụ không đồng ý với yêu cầu phát mại tài sản của cụ vì Ngân hàng đang khởi kiện đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng này không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012. Gia đình cụ có 9 thành viên là vợ chồng cụ và các con là bà L, ông Điện, ông Thưởng, ông T, bà T, ông Tân, bà Ngọc nhưng Hợp đồng thế chấp quyền chỉ có 4 thành viên ký, còn bà L, bà T, ông T, ông Thưởng, ông Đkhông ký là xâm phạm đến quyền và lợi ích của các con cụ. Cụ Trọng đã chết năm 2016. Cụ đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 127 ngày 22/11/2012 vô hiệu. Ông T, bà H pH có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn Bà Nguyễn Thị H trình bày ngày 22/11/2012 bà ký hợp đồng thế chấp số 126/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA – chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo khoản vay của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T theo hợp đồng tín dụng số 126 ngày 22/11/2012. Đến nay Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B đang khởi kiện đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 126 ngày 22/11/2012. Khi Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B ký các hợp đồng vay vốn trên với ông H, bà T thì bà không được biết và cũng không được ông H, bà T cũng như Ngân hàng thông báo gì. Tại thời điềm thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất của hộ gia đình bà thì có các thành viên là vợ chồng bà và các con là anh Trường, anh Bình nhưng trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có bà tham gia ký kết, chồng con bà không ký là chưa đúng quy định. Do vậy, bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 126 ngày 22/11/2012 vô hiệu, GCNQSDĐ thì bà đã được Ngân hàng trả có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm có- Ông Phạm Đình Thưởng tức Phạm Văn Thưởng là chồng bà H trình bày Ông không biết việc vợ ông là bà Nguyễn Thị H cho vợ chồng ông H, bà T mượn sổ đỏ của gia đình để thế chấp vay tiền Ngân hàng. Khi Tòa án đến làm việc, thông báo thì ông mới đươc biết. Ông chưa từng ký hợp đồng thế chấp nào do ông không biết chữ. Chữ ký trong hợp đồng thế chấp là của ai thì ông không biết. Ông H, bà T pH chịu trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng, ông không đồng ý xử lý tài sản thế chấp vì các khoản vay mà Ngân hàng đang khởi kiện ông H, bà T không nằm trong phạm vi bảo đảm của Hợp đồng thế chấp số 126. Ông đề nghị Ngân hàng DA xóa thế chấp cho ông, gia đình ông đã được trả lại GCNQSDĐ nên ông không yêu cầu Ngân hàng trả lại. Đối với việc cụ Trọng, cụ H bố mẹ ông ký hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012 thì ông không nhất trí vì ông cũng là thành viên hộ gia đình cụ Trọng nhưng không được ký hợp đồng thế chấp. Nay bố ông là cụ Trọng đã mất năm 2016, ông đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng thế chấp số 127 vô Ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc trình bày ngày 22/11/2012 gia đình ông bà gồm có vợ chồng ông và cụ Trọng, cụ H có ký hợp đồng thế chấp số 127/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA- phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại phòng giao dịch Tân Yên. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam đã được cấp ngày 23/11/2003, trên đất có đất có nH cấp bốn 5 gian, bếp, chuồng lợn, nH vệ sinhđể bảo đảm khoản vay cho ông H, bà T vay vốn tại Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B, phòng giao dịch Tân Yên. Sau khi thế chấp vợ chồng ông bà đã làm thêm mái tôn. Đến nay Ngân hàng khởi kiện ông H, bà T trả số tiền vay và đề nghị xử lý tài sản thế chấp thì ông bà không đồng ý vì hợp đồng thế chấp số số 127/NT – HĐTC đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại phòng giao dịch Tân Yên. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần DA- chi nhánh B đang khởi kiện ông H, bà T đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012. Mặt khác, tại thời điểm thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì hộ có 09 thành viên là cụ H, cụ Trọng và các con là bà L, ông Điện, ông Thưởng, ông T, bà T, ông Tân, bà Ngọc nhưng trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có vợ chồng cụ Trọng, ông Tân, bà Ngọc ký là chưa đúng quy định nên ông, bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012 vô hiệu, buộc Ngân hàng TMCP DA pH trả cho hộ gia đình ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 046652 - Đối với chị Phạm Thị Dinh, anh Phạm Đình Trường và Phạm Đình Bình trong qua trình giải quyết vụ án Tòa án không thu thập được lời khai của chị Dinh, anh Bình, anh Trường. Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/12/2020 ông Thưởng, bà H thống nhất bà Nguyễn Thị H là người đại diện theo pháp luật của anh Phạm Đình Trường để tham gia giải quyết vụ án theo quy định của pháp Phạm Đình T, ông Phạm Đình Điện, bà Phạm Thị T, bà Phạm Thị L là các con cụ Trọng và cụ H trình bày năm 2012, cụ Trọng, cụ H và vợ chồng ông Tân, bà Ngọc có ký hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012, thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam đã được cấp ngày 23/11/2003 để bảo đảm khoản vay cho ông H, bà T vay vốn tại Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên để vay số tiền đồng. Các ông, bà không đồng ý với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của gia Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa do ông Nguyễn Tư Khoa đại diện theo pháp luật trình bày ngày 22/11/2012 ông Phạm Đình Thường, bà Nguyễn Thị H, cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc đều là bên thế chấp quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp số 126/NT- HĐTC và hợp đồng thế chất số 127NT- HĐTC đã đến Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa yêu cầu công chứng hợp đồng thế chấp trên. Sau khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Thưởng, hộ cụ Trọng khớp với thông tin ghi trên hợp đồng thế chấp. Bên thế chấp đã ký vào hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nên văn phòng công chứng thực hiện công chứng là đúng quy định của pháp cầu độc lập của cụ H và bà H là không có căn cứ. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Thưởng thì anh Trường, anh Bình chưa đủ 15 tuổi, nguồn gốc diện tích đất cấp cho ông Thưởng là do bố mẹ ông Thưởng cho con nên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có chữ ký của ông Thưởng, bà H. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ cụ Trọng thì hộ chỉ có cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc còn cháu Tâm sinh sau thời điểm được cấp GCNQSDĐ. Đối chiếu với các thành viên trong sổ hộ khẩu với thành viên của hộ cụ Trọng trong hợp đồng thế chấp là đúng và đầy đủ. Khi các bên ký hợp đồng thế chấp, ông Thưởng, bà H thấy quyền và nghĩa vụ của mình bị xâm phạm thì ông Thưởng, bà H phải có ý kiến với Ngân hàng DA hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết nhưng ông Thưởng, bà H đều không có ý kiến, đến năm 2017 mới yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là đã quá thời hạn quy định về quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.* Luật sư Tạ Văn Phú bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị H trình bày ngày 22/11/2012 bà H có ký hợp đồng thế chấp số 126 với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B- phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông H, bà T đối với các khoản vay phát sinh tại phòng giao dịch Tân Yên. Tuy nhiên, hiện nay Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B khởi kiện ông H, bà T trả số tiền theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn trên đều do ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Thưởng - gồm 4 thành viên ông Thưởng, bà H, anh Bình, anh Trường nhưng tại hợp đồng thế chấp chỉ có một mình bà H ký mà không có văn bản ủy quyền theo pháp luật. Anh Trường là người bị câm điếc bẩm sinh nhưng quyền và lợi ích của anh Trường vẫn được bảo đảm, là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất. Khi định đoạt liên quan đến phần tài sản của anh Trường phải có sự đồng ý của người giám hộ của anh Trường. Trong hợp đồng thế chấp số 126 thể hiện có chữ ký của bà H, ông Thưởng nhưng chữ ký của ông Thưởng là giả mạo vì ông Thưởng là người không biết chữ. Về địa điểm ký hợp đồng thế chấp, theo lời khai của bà H thì hợp đồng thế chấp được ông H, bà T mang về nhà cho bà H ký chứ bà không xuống văn phòng công chứng Nguyễn Tư K ký là không đúng quy định của pháp luật. Ông Thưởng, bà H ký hợp đồng thế chấp mà không có chữ ký của các thành viên còn lại trong hộ gia đình, chữ ký của ông Thưởng trong hợp đồng thế chấp không đảm bảo tính pháp lý đã vi phạm điều cấm của pháp luật và thuộc trường hợp hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích nêu trên, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 109, Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 39, Điều 41 Luật công chứng năm 2006, khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ- CP của chính phủ, mục 4 phần III Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao tuyên Bác yêu cầu phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất đối với thửa số 280 tờ bản đồ số 05 của hộ gia đình ông Phạm Đình Thưởng. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H, ông Thưởng tuyên bố hợp đồng thế chấp số 126/NT- HĐTC vô hiệu. Yêu cầu Ngân hàng thương mại cổ phần DA giải chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 046646 số vào số cấp giấy chứng nhận 01830/QS DĐ/100/QQĐ- CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Đình có nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 23/4/2021 của Toà án nhân dân huyện Tân Yên đã quyết định1. Buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B đại diện với tổng số tiền là đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 23/4/2021, trong đó có tiền nợ gốc và đồng tiền nợ từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm,ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T còn pH tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa T toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi T toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B đại diện cho vay thì lãi suất mà ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T vay pH tiếp tục T toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA- chi nhánh B đại diện cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại cổ phần DA-chi nhánh B đại diện cho Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 126/NT/HĐTC ngày 22/11/2012 ký kết giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B – Phòng giao dịch Tân Yên với bên thế chấp vợ chồng ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H và hợp đồng thế chấp số 127/NT/HĐTCngày 22/11/ 2012 ký kết giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng thương mại cổ phần DA- Chi nhánh B - Phòng giao dịch Tân Yên với bên thế chấp vợ chồng cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc vô Về chi phí thẩm định tại chỗ Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B đại diện pH chịu đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Xác nhận Ngân hàng thương mại cổ phần DA -chi nhánh B đại diện đã nộp đủ chi phí thẩm định tài Về án phí Ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T, cụ Nguyễn Thị H được miễn tiền án phí kinh doanh thương mại sơ lại cho bà Nguyễn Thị H đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0006361 ngày 16/ 6/ 2020 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện pH chịu đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đồng đã nộp tại biên lại số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Hoàn trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B đại diện số tiền là đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo cho các bên đương khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/4/2021, đại diện của nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA nộp đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng, tuyên các hợp đồng thế chấp nêu trên có hiệu lực pháp kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên có kháng nghị số 01/QĐKNPT-VKS- KDTM ngày 07 tháng 5 năm 2021, cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B sửa Bản án sơ thẩm theo hướng xác định hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật; xác định hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu ½; chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật; buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Ngoài ra, kháng nghị còn nêu ra một số thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm về việc tuyên án xác định hai hợp đồng thế chấp số 126 và 127 vô hiệu nhưng không tuyên việc chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; không tuyên việc không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế phiên tòa phúc thẩm ngày 5/11/2021Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xin thay đổi, bổ sung kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật; tuyên bố hợp đồng thế chấp số 126 bị vô hiệu ½ do hai con của bà H, ông Thưởng không ký hợp đồng; chấp nhận một phần yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Các khoản vay của ông H và bà T được bảo đảm đồng thời bằng hai tài sản thế chấp, tỷ lệ bảo đảm sẽ căn cứ vào tỷ lệ % giá trị của từng tài sản so với tổng giá trị tài sản đã định giá tại tời điểm thế chấp. Nguyên đơn nhất trí với Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên. Năm 2015, Giám đốc Phòng giao dịch đã đồng ý cho các gia đình mượn lại GCNQSDĐ để đối chiếu số liệu đất đai với thôn. Sau đó, các gia đình chưa trả lại cho Ngân hàng. Hiện tại, Ngân hàng không còn quản lý hai GCNQSDĐ trên nhưng việc thế chấp vẫn còn hiệu lực vì chưa làm thủ tục xóa thế chấp đối với các thửa đất Nguyễn Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại cấp phúc thẩm. Các đương sự khác đều vắng diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B giữ nguyên Kháng nghị số 01//QĐKNPT – VKS - KDTM ngày 7/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, đề nghị tạm ngừng phiên tòa để xác minh việc xóa thế chấp đối với hai thửa đất có liên quan, năm sinh chính xác của cụ H, bà H; tên chính xác của anh Trường do trong hồ sơ vụ án có nhiều thông tin khác nhau. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định tạm ngừng phiên phiên tòa ngày 17/12/2021Nguyên đơn trình bày giữ nguyên kháng cáo ban đầu, đề nghị Tòa án xác định cả hai hợp đồng thế chấp số 126 và 127 có hiệu lực. Trường hợp ông H và bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ , Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại các tài sản thế chấp theo hai hợp đồng thế chấp nói trên. Trường hợp có hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu thì Ngân hàng chưa xác định được thiệt hại nên không yêu cầu xem xét trong vụ án này. Việc Ngân hàng trả lại GCNQSDĐ cho hai hộ gia đình không ảnh hưởng gì đến việc thế chấp các tài sản trên vì việc thế chấp được đăng ký theo quy định của pháp luật và chưa xóa thế Phạm Đình Thưởng có mặt trình bày Do bận việc gia đình nên ông và các thành viên trong gia đình không tham gia các phiên tòa trước. Ông chưa bao giờ đồng ý cho ông H, bà T mượn sổ đỏ để thế chấp vay tiền Ngân hàng. Bà H vợ ông ông tự quyết mà không nói gì cho ông và các con được biết. Ông chưa từng đến Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa và cũng chưa bao giờ ký hợp đồng thế chấp nào do ông không biết đọc, không biết viết. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông và gia đình cụ Trọng thì Ngân hàng đã trả lại cho hai gia đình. Nếu ông H, bà T không trả được nợ cho Ngân hàng, ông không đồng ý phát mại nH, đất của ông để trả nợ cho Ngân hàng DA vì việc thế chấp trên là trái pháp luật. Ông đề nghị Hội đồng xét xử xác định hợp đồng thế chấp nH, đất của ông vô hiệu. Gia đình ông không có yêu cầu giải quyết hậu quả của hơp đồng vô hiệu do đã nhận được diện Viểm sát tỉnh B giữ nguyên nội dung kháng nghị và phát biểu quan điểm- Về tố tụng Toà án nhân dân tỉnh B và các đương sự đã chấp hành đầy đủ các trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân Về nội dung vụ án Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà án nhân dân tỉnh B áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, sửa bản án sơ án phí dân sự phúc thẩm nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do một phần kháng cáo được chấp ĐỊNH CỦA TÒA ÁNSau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định[1] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa Ông H, bà T, cụ H, bà H, ông Tân, bà Ngọc, chị Dinh, ông Điện, ông T đã có đơn xin xét xử vắng mặt; bà L, bà T, đại diện Văn phòng công chứng Tư Khoa, anh Bình được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa mở lần thứ hai. Do vậy, Tòa án xét xử vắng mặt họ là đảm bảo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.[2] Xét nội dung kháng nghị và kháng cáo về hiệu lực của các hợp đồng thế chấp và việc xử lý tài sản thế chấp[ Ngày 22/11/2012, Ngân hàng TMCP DA – Chi nhánh B - Phòng giao dịch huyện Tân Yên và ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T có ký kết 2 hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng số 126/NT với hạn mức tín dụng là đồng và Hợp đồng tín dụng số 127/NT với hạn mức tín dụng là đồng. Cùng ngày, tại Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa, ông H, bà T cùng với bên có tài sản thế chấp đã ký Hợp đồng thế chấp số 126 và Hợp đồng thế chấp số 127 với Ngân hàng để đảm bảo cho các khoản vay theo các hợp đồng tín dụng cứ vào các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nói trên, Ngân hàng TMCP DA - chi nhánh Bắc Giang và ông H, bà T đã ký 03 hợp đồng vay vốn cụ thể Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, ông H, bà T vay số tiền là đồng; Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, ông H, bà T vay số tiền là đồng; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013, ông H, bà T vay số tiền là Quyết định số 13/2008/QĐ- NHNN ngày 29/4/2008 của Ngân hàng Nhà nước phòng giao dịch là bộ phận phụ thuộc sở giao dịch, chi nhánh của Ngân hàng thương mại hạch toán báo sổ, có con dấu, thực hiện một số giao dịch với khách hàng. Phòng giao dịch không được cấp tín dụng cho một khách hàng vượt quá hai tỷ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần DA là nguyên đơn trong vụ án đã biết và không có ý kiến gì về các hợp đồng tín dụng, các hợp đồng thế chấp nói trên thì các hợp đồng tín dụng, các hợp đồng thế chấp đều được coi là được ký kết trong phạm vi được ủy quyền phạm vi được đại diện theo quy định tại Điều 92 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự 2005. Ngân hàng DA có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp do Chi nhánh B hoặc Phòng giao dịch tại Tân Yên xác lập và thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng tín dụng số 126, 127 vô hiệu do vượt quá hạn mức là không đúng.[ Về hiệu lực của Hợp đồng thế chấp số 126/NT-HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Phòng giao dịch huyện Tân Yên với ông Phạm Đình Thưởng và bà Nguyễn Thị H và yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 126 của nguyên đơnTheo nội dung ghi trong hợp đồng thế chấp số 126 Bên nhận thế chấp được xác định là Ngân hàng thương mại cổ phần DA; bên thế chấp là ông Phạm Đình Thưởng và bà Nguyễn Thị H. Ông Thưởng, bà H thế chấp quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng tức Phạm Đình Thưởng đảm bảo cho việc thực hiên nghĩa vụ của ông H, bà T theo hợp đồng tín dụng số 126/NT và và các nghĩa vụ phát sinh trong tương lai của ông H, bà T đối với Ngân hàng thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/11/2003, hộ ông Phạm Đình Thưởng có 4 thành viên ông Phạm Đình Thưởng và vợ là bà Nguyễn Thị H; anh Phạm Đình Trường và anh Phạm Đình Bình là các con ông Thưởng, bà H. Theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng thửa đất số 280 nói trên là tài sản chung của hộ gia đình bà H. Do ông Thưởng và bà H đều xác định các thành viên trong gia đình có quyền ngang nhau nên ½ giá trị quyền sử dụng thửa đất là tài sản chung hợp nhất của ông Thưởng và bà H, ½ giá trị quyền sử dụng thửa đất là tài sản chung theo phần của anh Trường và anh Bình các con của ông Thưởng, bà H.Hợp đồng thế chấp số 126 do nguyên đơn cung cấp thể hiện ông Thưởng, bà H, đại diện Ngân hàng DA, ông H, bà T tham gia ký kết hợp đồng, được công chứng tai Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa. Sau khi công chứng, các bên làm thủ tục đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Tại muc bên B bên thế chấp trong hợp đồng có chữ ký, chữ viết của ông Thưởng và bà H. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, ông Thưởng đều trình bày không biết việc bà H cho ông T, bà H mượn sổ đỏ của gia đình để thế chấp Ngân hàng. Khi Tòa án đến làm việc, thông báo thì ông mới được biết. Ông chưa từng biết đến Hợp đồng thế chấp số 126 và cũng chưa ký vào hợp đồng này. Lời trình bày của ông Thưởng là có căn cứ chấp nhận vì Trưởng thôn nơi ông Thưởng sinh sống xác nhận ông Thưởng không biết đọc, không biết viết. Do đó, đủ cơ sở xác định ông Thưởng, anh Bình, anh Trường không biết và không được ký hợp đồng thế chấp nói trên. Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị lớn của hộ gia đình, của vợ chồng. Việc bà H tự ý định đoạt tài sản chung hợp nhất chưa phân chia của vợ chồng, tự ý định đoạt phần tài sản của các đồng sở hữu chung theo phần các con mà không có sự bàn bạc hay đươc sự đồng ý của họ là vi phạm Điều 109, Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Căn cứ Điều 121, Điều 122, Điều 128 của Bộ luật Dân sự 2005, xác định hợp đồng thế chấp số 126/NT-HĐTC vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều cấm của pháp luật. Do hợp đồng thế chấp 126 vô hiệu nên yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 126 của nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận. Về hậu quả của hợp đồng thế chấp tài sản bị tuyên vô hiệu, Tòa án đã tiến hành giải thích quy định của pháp luật nhưng không đương sự nào có yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết. Sau này, nếu có yêu cầu, các đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết bằng vụ án án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về xử lý tài sản theo Hợp đồng thế chấp 126 là đúng nhưng nhận định Hợp đồng thế chấp số 126 chỉ đảm bảo cho các khoản vay của ông H, bà T tại phòng giao dich Tân Yên mà không đảm bảo các khoản vay của ông H, bà T tại Chi nhánh B của Ngân hàng DA là không chính xác.[ Về Hợp đồng thế chấp số 127/NT-HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Phòng giao dịch huyện Tân Yên với cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc và yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 127/NT-HĐTCTheo nội dung của hợp đồng bên nhận thế chấp được xác định là Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Bên thế chấp là cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 838,4m2 đất trong đó có 360m2 đất ở, 478,4m2 đất vườn tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng tức Phạm Đình Trọng.Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ ngày 23/11/2003, hộ gia đình cụ Phạm Đình Trọng có 4 thành viên cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc. Các con của cụ Trọng đều đã lập gia đình riêng và không có tên trong danh sách thành viên hộ gia đình. Cháu Phạm Thị T Tâm, sinh năm 2007 và cháu Phạm Thị T Ngân, sinh năm 2010 là các con của anh Tân, chị Ngọc hiên nay có tên trong sổ hộ khẩu gia đình nhưng đều sinh sau thời điểm cấp GCNQSDĐ. Theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng thửa đất số 290 nói trên là tài sản chung của cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc. Khi xác lập hợp đồng thế chấp số 127 thì tất cả các thành viên trong hộ gia đình trên 15 tuổi đã tự nguyện ký vào hợp đồng thế chấp là đảm bảo quy định về định đoạt tài sản chung theo quy định tại Điều 109, Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Tư Khoa; các bên đã làm thủ tục đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, Hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 121, Điều 122, Điều 135, Điều 137 của Bộ luật Dân sự đại diện Ngân hàng trình bày không còn quản lý GCNQSDĐ của gia đình cụ H nhưng qua làm việc tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tân Yên, việc thế chấp quyền sử dụng thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất chưa được xóa thế chấp. Căn cứ vào Điều 2 và Điều 6 trong các Hợp đồng thế chấp số 127 và quy định tại Điều 342, Điều 351, Điều 355 của Bộ luật Dân sự 2005, trường hợp ông H và bà T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng DA có quyền đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp số án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127 vô hiệu và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về xử lý phát mại tài sản thế chấp theo hợp đồng trên trong trường hợp bên vay không thực hiên nghĩa vụ trả nợ là không đúng, cần chấp nhận kháng nghị và kháng cáo của nguyên đơn về nội dung này.[3] Xét nội dung kháng nghị về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩmNội dung kháng nghị cho rằng Tranh chấp giữa Ngân hàng DA với ông Tô T H, bà Khúc Thị T là tranh chấp kinh doanh thương mại giữa pháp nhân có đăng ký kinh doanh với cá nhân có đăng ký kinh doanh, đều có mục đích lợi nhuận. Do đó, ông H, bà T trên 60 tuổi nhưng không thuộc trường hợp được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Ông H và bà T phải có nghĩa vụ T toán cho Ngân hàng DA tổng số tiền đồng. Theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và điểm đ mục – A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326 thì ông H và bà T phải chịu án phí tương ứng là đồng +2% x đồng = đồng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm miễn án phí cho ông H, bà T là không đúng, gây thất thu cho Ngân sách Nhà cứ lời khai của các đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ thì thấy ông H và bà T vay tiền với tư cách cá nhân, không đại diện cho tổ chức hay pháp nhân nào. Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, ông H và bà T đều trên 60 tuổi, là người cao tuổi, có đơn xin miễn tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Đối chiếu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông H và bà T đủ điều kiện được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm miễn toàn bộ án phí kinh doanh thương mại cho ông H, bà T là có căn cứ và đúng pháp luật. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên về nội dung này.[4] Những thiếu sót cần rút kinh nghiệmVề việc xác định tư cách đương sự Cụ Phạm Đình Trọng chết năm 2016, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Hng thừa kế thứ nhất của cụ Trọng là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của đương sự là chưa chính xác, cần xác định lại là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc xác định sai tư cách đương sự không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nhưng cần rút kinh nghiệm trong các vụ án sau án cấp sơ thẩm tuyên ông H, bà T pH trả nợ nhưng không ghi trả theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nào; Ngân hàng có yêu cầu về xử lý tài sản thế chấp, bà H có yêu cầu độc lập về việc tuyên Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu, cụ H có yêu cầu độc lập về việc tuyên Hợp đồng thế chấp số 127 vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hợp đồng thế chấp số 126 và 127 vô hiệu nhưng không tuyên việc chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp, không tuyên chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.[5] Từ những phân tích, đánh giá trên, Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên và một phần kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng Tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu; tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật. Trường hợp ông H, bà T không trả nợ hoăc không trả nợ đầy đủ các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết, Ngân hàng DA có quyền yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của Hợp đồng thế chấp số 127 theo quy định của pháp luật; không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên về việc buộc ông T, bà H pH chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.[6] Về án phí phúc thẩm Kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên nguyên đơn không pH chịu án phí dân sự phúc các lẽ trên;QUYẾT ĐỊNHCăn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh B; chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 21/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh cứ Điều 92, Điều 146, Điều 108, Điều 109, Điều 121, Điều 122, Điều 128, Điều 135, Điều 137, Điều 342, Điều 351, Điều 355, Điều 216, Điều 217, Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 27 và Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 158; Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Án lệ số 08/2016/ AL ngày 17/10/ cứ Điều 12, Điều 14, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử 1. Buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA tổng số tiền là đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 23/4/2021, trong đó có đồng tiền nợ gốc và đồng tiền nợ lãi theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/ từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T còn pH tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa T toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi T toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho vay thì lãi suất mà ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T vay pH tiếp tục T toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho Không chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị H về việc tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127/NT/HĐTC ngày 22/11/ 2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B - Phòng giao dịch Tân Yên với cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc vô Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 126/NT/HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B – Phòng giao dịch Tân Yên với ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H vô Trường hợp ông Tô T H và bà Khúc Thị T không thi hầnh hoặc thi hành không đầy đủ khoản tiền vay và lãi phát sinh tại các Hợp đồng tín dụng Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013 đã ký kết với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B thì Ngân hàng DA có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 127/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 gọi tắt là HĐTC số 127 giữa cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc với Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, diện tích 838,4m2 tại thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng tức Phạm Đình Trọng.Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần DA về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam nay là thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất; đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng tức Phạm Đình Thưởng theo Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 126/NT- HĐTC ngày 22/11/ Về chi phí thẩm định tại chỗ Ngân hàng thương mại cổ phần DA pH chịu đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Xác nhận Ngân hàng thương mại cổ phần DA đã nộp đủ chi phí thẩm định tài Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩmCụ Nguyễn Thị H được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ Nguyễn Thị H không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả lại cho bà Nguyễn Thị H đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0006361 ngày 16/ 6/ 2020 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh Tô Văn H và bà Khúc Thị T phải chịu đồng án phí kinh doanh thương mại sơ hàng thương mại cổ phần DA phải chịu đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Hoàn trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần DA –chi nhánh B đại diện số tiền là đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩmNgân hàng thương mại cổ phần DA không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần DA số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đồng đã nộp tại biên lại số AA/2020/ 0000279 ngày 29/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên ánNguồn
Bình luận 20 Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại, Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và Bản án tranh chấp về chấp hợp đồng dịch vụ. Và còn nhiều loại tài liệu hỗ trợ học tập cho các bạn sinh viên ngành Luật Các bạn sinh viên cần hỗ trợ viết báo cáo thực tập và tiểu luận có thể tham khảo Luận văn Luật qua dịch vụ hỗ trợ viết thuê báo cáo thực tập nhé. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 1 – Bản án 171/2006/KT-PT ngày 06/9/2006 về việc tranh chấp hợp đồng vận chuyển container của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà NộiBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 2 Bản án 459/2006/KDTM-ST ngày 15/09/2006 về việc Tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 3 Bản án số 50/2007/KDTM –PT ngày 31/5/2007 về việc Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân tối Cao tại thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4 Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 5. Bản án số 108/2017/KDTM-ST ngày 11/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ logistics của Tòa án nhân dân quận Tân Bình – thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 6. Bản án số 34/2017/KDTM-PT ngày 31/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số số 7. Bản án số 18/2018/KDTM-ST ngày 5/1/2018 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận – thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 7. Bản án số 03/2018/KDTM-PT về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 9. Bản án số 02/2018/KDTM-ST ngày 5/11/2018 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý – tỉnh Hà NamBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 10. Bản án số 41/2018/KDTM-PT ngày 22/11/2018 về Tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 11. Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 31/5/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách tỉnh Hải DươngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 12. Bản án số 01/2019/KDTM-ST ngày 18/6/2019 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 13. Bản án số 15/2019/KDTM-ST ngày 10/7/2019 về tranh chấp hợp đồng Logistics của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – tỉnh Hòa án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 14. Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 19/7/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá – tỉnh Kiên GiangBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 15. Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 12/8/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên – tỉnh Bắc GiangBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 16. Bản án số 10/2019/DS-ST ngày về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê – thành phố Đà NẵngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 17. Bản án số 06/2019/KDTM-ST ngày 8/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Lê Chân – Thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 18. Bản án số 28/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa – tỉnh Đồng NaiBản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 19. Bản án số 10/2019/KDTM-PT ngày 20/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Hải DươngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 20. Bản án số 01/2020/KDTM-ST ngày 10/ về Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền – thành phố Hải Phòng Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 1 – Bản án 171/2006/KT-PT ngày 06/9/2006 về việc tranh chấp hợp đồng vận chuyển container của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội Nguyên đơn Công ty TCC Bị đơn Công ty Phili Tóm tắt vụ án Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg, sau đó Nguyên đơn thỏa thuận với ông Johnny Chew về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha. Vào thời điểm Nguyên đơn thỏa thuận với ông Johnny Chew về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha thì ông Johnny Chew đã bị buộc thôi việc tại Công ty Phili. Hai hóa đơn Nguyên đơn cung cấp thể hiện Bị đơn phải thanh toán số tiền vận chuyển là USD. Trong đó 1000 USD đã được ông Johnny Chew trả với danh nghĩa cá nhân vào ngày 15/2/2004. Ngày 21/3/2005, Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán khoản nợ gốc là USD và lãi chậm trả 8%/năm tính từ ngày 01/3/2004. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán của người ký kết hợp đồng Nhận định của Tòa Bản án sơ thẩm Áp dụng Điều 233 và 234 Luật Thương mại 1997, bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Bản án phúc thẩm Xét thấy Hợp đồng vận chuyển giữa Công ty Phili và Công ty TCC là hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg. Sau đó từ Hamburg đến Praha thì không có hợp đồng giữa các Bên thể hiện cho việc này. Hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg là do ông Johnny Chew người đại diện theo pháp luật của Bị đơn ký. Ông Johnny Chew đã bị buộc thôi việc từ 01/9/2002, nếu ông có ký hợp đồng vận chuyển tiếp với Nguyên đơn thì cá nhân ông Johnny Chew phải chịu trách nhiệm. Việc vận chuyển từ TP. HCM đi Hamburg đã được Công ty Phili thanh toán thuế giá trị gia tăng với Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển. Về ông Johnny Chew, ông cũng đã có thừa nhận rằng việc vận chuyển hàng đi Praha là nợ của cá nhân ông. Tòa án cấp Phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án của Tòa cấp sơ thẩm. Nhận định cá nhân Việc Nguyên đơn kiện Bị đơn là do Nguyên đơn không biết được về việc ông Johnny Chew đã bị thôi việc. Vậy lúc thỏa thuận về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha qua email với ông Johnny Chew thì ông Johnny Chew đã sử dụng danh nghĩa cá nhân hay là danh nghĩa của Công ty Phili để thỏa thuận việc này. heo em ông Johnny Chew đã sử dụng danh nghĩa của Công ty Phili, vì vậy mới dẫn đến việc Công ty TTC khởi kiện Công ty Phili mà không phải là ông Johnny Chew. Viêc ông Johnny Chew làm như vậy liệu có bị phạt hành chính theo quy định của Luật thương mại 1997 hay không? Nếu như lập luận của em đúng thì ông Johnny Chew phải bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 258 Luật thương mại 1997. Ngoài ra khoản lợi nhuận ông Johnny Chew có được từ việc vận chuyển này phải thuộc về Công ty Phili do Công ty TTC cho rằng ông Johnny Chew đại diện cho Công ty Phili để thỏa thuận. XEM THÊM ==> Trọn bộ 362 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Doanh Nghiệp XEM THÊM ==> Quy Định Của Pháp Luật Về Công Ty TNHH Hai Thành Viên Trở Lê XEM THÊM ==> Đề Tài tốt nghiệp Pháp Luật Về Đăng Ký Doanh Nghiệp Ở Việt Nam Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 2 Bản án 459/2006/KDTM-ST ngày 15/09/2006 về việc Tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên đơn Công ty kho vận Miền Nam Bị đơn Công ty C&I Tóm tắt vụ án Nguyên đơn có ký với Bị đơn hợp đồng mua chỗ vận chuyển lô hàng với số tiền cước là USD. Khi gởi lô hàng qua hãng hàng không thì Bị đơn đã gởi kèm bộ chứng từ thay vì phải gửi bằng đường bưu điện và đã không khai báo cho Nguyên đơn và hãng hàng không về việc này. Vì vậy, khách hàng không nhận được hàng và vì phải làm lại bộ chứng từ nên mất 16 ngày mới nhận được hàng. Bị đơn còn nợ Nguyên đơn số tiền là USD, do giao hàng chậm trễ nên Nguyên đơn chia sẻ tiền cước là còn USD nhưng Bị đơn không trả. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn trả USD, Bị đơn xác nhận số nợ và có yêu cầu phản tố đòi Nguyên đơn bồi thường số tiền thiệt hại là USD do hang hàng không làm mất bộ chứng từ hàng hóa. Vấn đề pháp lý Nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhận định của Tòa án Về yêu cầu của Nguyên đơn, vì Bị đơn đã xác nhận nợ nên Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền USD Về yêu cầu phản tố của Bị đơn, Tòa án căn cứ vào khoản điều III của Hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không số 11C7/01-05/HĐGNVCNT-QT ngày 01/01/2005 quy định trách nhiệm và quyền của Bị đơn. Khi có tranh chấp trong việc thất lạc bộ chứng từ hàng hóa thì Bị đơn có trách nhiệm khiếu nại trực tiếp với hãng hàng không để đòi bồi thường do việc thất lạc bộ chứng từ hàng hóa nên yêu cầu của Bị đơn là không có cơ sở. * Nhận định cá nhân Tôi cho rằng cấp sơ thẩm đã giải quyết đúng quy định pháp luật nhằm đảm quyền và lợi ích của cá nhân. Nhưng trên thực tế thì việc các bên phải thực hiện nghĩa vụ là hoàn toàn đúng quy định bởi điều này phù hợp với các điều khoản ghi rõ trong hợp đồng. Do đó, phán quyết của Tòa án là hoàn toàn chính xác. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 3 Bản án số 50/2007/KDTM –PT ngày 31/5/2007 về việc Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân tối Cao tại thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Bình Minh Tài – Bị đơn Nguyễn Thành Hưng – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Dutch Lady Việt Nam, ông Nguyễn Quang Tuấn Tóm tắt vụ án o Công ty Bình Minh Tài ký hợp đồng vận chuyển sữa Cô Gái Hà Lan từ Bình Dương ra Hà Nội. Trên đường vận chuyển, lái xe số 12H – 6388 gây tai nạn, tài xế bị chết, hàng hóa hư hỏng. Công ty Bình Minh Tải đã phải bồi thường cho Công ty Dutch Lady Vietnam số tiền Nay Công ty TNHH Bình Minh Tải yêu cầu ông Nguyễn Thành Hưng với trách nhiệm là chủ xe bồi hoàn số tiền mà Công ty TNHH Bình Minh Tải đã bồi thường cho Công ty Dutch Lady Vietnam là o Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Công ty Bình Minh Tải đối với bị đơn là ông Nguyễn Thành Hưng.. o Quyết định phúc thẩm Hủy quyết định phúc thẩm. Quyết định giám đốc thẩm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4 Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Nguyên đơn Công ty TFS Bị đơn Công ty KRV Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty GFT Tóm tắt vụ án Công ty KRV và Công ty TFS có ký với nhau Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa, theo đó Công ty TFS sẽ giao hàng may mặc từ sang Miami, Florida. Cước phí vận chuyển lô hàng là USD. Sau khi Công ty TFS hoàn tất nghĩa vụ giao hàng, phía Công ty KRV thanh toán số tiền USD thông qua GFT. TFS yêu cầu Tòa án xét xử buộc Công ty KRV phải thanh toán số tiền còn nợ là USD và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. KRV lập luận rằng trong điều khoản thanh toán ghi trên yêu cầu vận chuyển của KRV gửi TFS ngày 26/02/2004 và trong vận đơn hàng không đã ghi rõ “Cước phí trả trước bởi GFT”. Do đó, GFT mới là người có trách nhiệm thanh toán cước phí vận chuyển cho TFS và phỉa thanh toán trước khi vận chuyển. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu của TFS, buộc KRV phải trả số tiền USD. Quyết định phúc thẩm Đình chỉ xét xử vụ án do Người kháng cáo là KRV đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Quyết định giám đốc thẩm Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ giữa KRV và TFS là quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng không là không đúng, quan hệ giữa 2 bên là quan hệ hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Vận đơn mà TFS đã đưa cho KRV chỉ là vận đơn thứ cấp nên phải áp dụng Luật thương mại 1997 từ Điều 163 đến Điều 171 quy định về “Dịch vụ giao nhận hàng hóa”. Áp dụng khoản 4 Điều 167, khoản 7 Điều 168 Luật thương mại 1997, khi TFS không nhận được khoản tiền thanh toán từ GFT, TFS phải thông báo cho KRV để xin chỉ dẫn thêm nhưng TFS không làm. Việc này dẫn đến hậu quả là thiệt hại xảy ra cho TFS vì đã không thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng nên KRV không có lỗi để bồi thường thiệt hại. Ngoài ra còn có chứng cứ chứng minh việc TFS đã xác định rõ người có trách nhiệm trả tiền cho mình là GFT chứ không phải là KRV, vì GFT không thanh toán nên mới khởi kiện đòi KRV. Vì vậy, Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 5. Bản án số 108/2017/KDTM-ST ngày 11/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ logistics của Tòa án nhân dân quận Tân Bình – thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phân Phối và Thương Mại T – Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C – Bên liên quan Công ty S Tóm tắt vụ án Ông B – giám đốc Công ty T liên lạc với ông L giám đốc công ty C nhờ Công ty C đứng ra nhập khẩu lô hàng đậu nành từ Công ty S ở Thái Lan về Việt Nam. Ông B đã thỏa thuận hàng hóa, số lượng, giá cả với Công ty S bên Thái Lan, sau đó Công ty C đã ký kết hợp đồng mua bán với Công ty S để nhập khẩu lô hàng đậu nành trị giá USD về Việt Nam. Ông B đã đến Công ty C để thanh toán tiền 02 lần đủ 100% giá trị HĐ – đồng nhưng Công ty T vẫn chưa được nhận hàng từ Công ty S Thái Lan. Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty C bồi thường số tiền đồng. Tại buổi hòa giải, công ty T có thay đổi số tiền yêu cầu bồi thường là đồng – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phân Phối và Thương Mại T đòi Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C bồi thường số tiền đồng. Bình Luận 20 Bản án về chấp hợp đồng thương mại, hợp đồng DỊCH VỤ Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 6. Bản án số 34/2017/KDTM-PT ngày 31/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh Nguyên đơn Công ty H Bị đơn Công ty Tr Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty H1 Tóm tắt vụ án Công ty H đã ký hợp đồng với Công ty H1 để nhập khẩu xe ô tô tại cảng Hải Phòng. Công ty H đã thanh toán tiền xe và giá cước vận tải. Bên bán đã đóng hàng trong 2 contener từ Hoa Kỳ về đến cảng trả hàng tại Hải Phòng. Hàng đến cảng nhưng Công ty mạng lưới vận tải Tr không giao hàng. Công ty Tr gửi giấy báo tàu đến có nội dung yêu cầu thanh toán cước phí vận tải biển và phí lưu contener là sai vì giá mua hàng đã bao gồm phí vận chuyển. Do đó công ty H đã khởi kiện đòi phát lệnh giao hàng công ty H khởi kiện yêu cầu Công ty Tr giải quyết trả hàng theo vận đơn và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do không thực hiện nghĩa vụ giao hàng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm vận chuyển và giao hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu của H, buộc công ty Tr phải chịu cước phí, phí lưu kho. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường Quyết định phúc thẩm Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số số 7. Bản án số 18/2018/KDTM-ST ngày 5/1/2018 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận – thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Công ty Cổ phần J – Bị đơn Công ty Cổ phần Y Tóm tắt vụ án Công ty Cổ phần J và Công ty Cổ phần Y có ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa với nội dung Công ty Y ủy quyền cho Công ty J thực hiện vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không. Công ty J đã thực hiện đầy đủ hợp đồng. Tuy nhiên, công ty Y không thanh toán cho côngY theo đúng cam kết. Do vậy, Công ty J yêu cầu Công ty Y có trách nhiệm thanh toán số tiền còn – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công Y. Buộc công ty Công ty Cổ phần J số tiền nợ cước dịch vụ vận chuyển là đồng. XEM THÊM ==> Tổng hợp 55 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Hợp Đồng Lao Động XEM THÊM ==> Danh sách 70 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Hợp Đồng Dân Sự, Mới Nhất Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 7. Bản án số 03/2018/KDTM-PT về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty bảo hiểm BIC Bị đơn Công ty Nhã Phương Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty T&C Tóm tắt vụ án Công ty T&C ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty Nhã Phương, theo đó Công ty T&C sẽ vận chuyển 01 container lạnh của Công ty Nhã Phương chở hàng đi từ Hải Phòng đến cửa khẩu Bình Nghi, Lạng Sơn. Trước đó, Công ty Nhã Phương đã ký hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển cho vỏ container lạnh nêu trên với Công ty bảo hiểm BIC. Quá trình điều khiển thì tài xế của Công ty T&C điều khiển xe gây tai nạn. Công ty BIC đã chi trả số tiền bồi thường cho Công ty Nhã Phương. Do vậy Công ty BIC khởi kiện yêu cầu Công ty T&C hoàn trả lại số tiền sau khi trừ tiền bán thanh lý vỏ container còn lại đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn Công ty Cổ phần Tphải bồi hoàn cho nguyên đơn Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Nkhoản tiền đồng Quyết định phúc thẩm Chấp nhận một phần kháng cáo của công ty T&C. Sửa 1 phần bản án sơ thẩm Công ty Cổ phần T&C phải trả cho Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 9. Bản án số 02/2018/KDTM-ST ngày 5/11/2018 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý – tỉnh Hà Nam – Nguyên đơn Công ty K – Bị đơn Công ty U Tóm tắt vụ án Công ty K thực hiện dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa theo yêu cầu của Công ty U, xác nhận bằng lời nói, và thực hiện theo đúng hợp đồng. Theo dịch vụ logisticsc c tổng giá trị là Sau khi K uất các hóa đơn theo từng lần vận chuyển thì U vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho K. Nay Công ty K khởi kiện yêu cầu Công ty U thanh toán số tiền thu lao chậm trả và tiền lãi chậm trả. – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công K. Buộc công ty Công ty Công ty U phải trả cho Công K tổng số tiền là làm tròn thành Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 10. Bản án số 41/2018/KDTM-PT ngày 22/11/2018 về Tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty A Bị đơn Công ty B Người liên quan Công ty M Tóm tắt vụ án Công ty A và Công ty B ký kết Hợp đồng vận chuyển. Theo yêu cầu của Công ty A, Công ty B đã bố trí xe container do lái xe C của Công ty B điều khiển chở hàng là đá xẻ ốp lát dạng tấm mài bong 01 mặt dùng trong xây dựng đựng trong container từ Công ty T ở tỉnh Yên Bái đi Hải Phòng. Khi xe ô tô trên đường vận chuyển thì bị xảy ra tai nạn. Công ty A đã bồi thường toàn bộ chi phí thiệt hại do Công ty B gây ra cho Công ty M số tiền là đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền là Quyết định phúc thẩm Giữ nguyên bản án sơ thẩm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 11. Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 31/5/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương Nguyên đơn Công ty V Bị đơn Công ty A Tóm tắt vụ án Công ty V thuê Công ty A vận chuyển hàng hóa là cọc bê tông, cước vận chuyển là đã bao gồm VAT, chi phí cầu cảng, phí bốc xếp hàng tổng cộng bằng Công ty A đã hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển, xuất hóa đơn, đề nghị thanh toán cùng với biên bản quyết toán hàng hóa nhưng Công ty A cũng không thực hiện thanh toán như thỏa thuận. Do vậy công ty A yêu cầu công ty V trả tiền còn nợ là và tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất là 9%/năm. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A Buộc Công ty V phải thanh toán trả Công ty A khoản tiền còn nợ từ hợp đồng vận chuyển nợ gốc là và tiền lãi phát sinh là Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 12. Bản án số 01/2019/KDTM-ST ngày 18/6/2019 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty Cảng Hoàng D Bị đơn Công ty Cảng Hoàng D Tóm tắt vụ án Công ty V thuê Công ty A vận chuyển hàng hóa là cọc bê tông, cước vận chuyển là đã bao gồm VAT, chi phí cầu cảng, phí bốc xếp hàng tổng cộng bằng Công ty A đã hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển, xuất hóa đơn, đề nghị thanh toán cùng với biên bản quyết toán hàng hóa nhưng Công ty A cũng không thực hiện thanh toán như thỏa thuận. Do vậy công ty A yêu cầu công ty V trả tiền còn nợ là và tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất là 9%/năm. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A Buộc Công ty V phải thanh toán trả Công ty A khoản tiền còn nợ từ hợp đồng vận chuyển nợ gốc là và tiền lãi phát sinh là Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 13. Bản án số 15/2019/KDTM-ST ngày 10/7/2019 về tranh chấp hợp đồng Logistics của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – tỉnh Hòa Bình. Nguyên đơn Công ty TNHH một thành viên dịch vụ giao nhận K Bị đơn Công ty Cổ phần may xuất khẩu A Tóm tắt vụ án Năm 2017, Công ty giao nhận K giao kết hợp đồng dịch vụ Logistics với Công ty may xuất khẩu A và không lập thành văn bản. Phía Công ty K đã thực hiện đầy đủ dịch vụ và giao trả hóa đơn thuế giá trị gia tăng cho Công ty A. Tuy nhiên, Công ty A chậm thanh toán giá dịch vụ cho Công ty K. Số tiền chậm thanh toán là đồng. Do vậy, Công ty K khởi kiện với yêu cầu Công ty A thanh toán trả khoản tiền dịch vụ còn lại là đồng và khoản tiền lãi do chậm trả là đồng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng Logistics Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty Cổ phần may xuất khẩu A có nghĩa vụ thanh toán trả phí dịch vụ Logistics cho Công ty TNHH một thành viên dịch vụ giao nhận K số tiền là đồng và khoản tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là đồng. Tổng cộng là Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 14. Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 19/7/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá – tỉnh Kiên Giang Nguyên đơn Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N Tóm tắt vụ án Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V ký kết Hợp đồng dịch vụ giao nhận với Công N. Theo đó Công ty V vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, đường hàng không, vận chuyển nội địa, khai báo Hải quan, làm dịch vụ C/O Form D. Đồng thời, Công ty N có trách nhiệm phải thanh toán đủ 100% trị giá hóa đơn của từng lô hàng cho Công ty V trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tàu chạy. Công ty N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần. Do vậy Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V yêu cầu Tòa án buộc Công ty N phải trả số tiền đồng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Buộc Công ty N phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công tiếp vận vận tải quốc tế V số tiền đồng. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 15. Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 12/8/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang Nguyên đơn Công ty S Bị đơn Công ty Ch Người liên quan Công ty S Tóm tắt vụ án Công ty S ký Hợp đồng vận chuyển với Công ty Ch với thời hạn 12 tháng trong đó bên thuê vận chuyển là Công ty S, còn bên cung cấp dịch vụ vận chuyển là Công ty Ch. Nội dung bắt buộc công ty Ch phải thực hiện và tuân thủ đúng các yêu cầu và đảm bảo thực hiện các nguyên tắc trong quá trình bốc dỡ, di chuyển hàng hóa. Công ty Ch thì cho rằng Công ty Ch chỉ đứng ra ký kết hợp đồng với S còn việc vận chuyển là thuê bên Công Q vận chuyển. Toàn bộ lái xe và xe vận chuyển là của Công ty Q. Nếu bồi thường thì công ty S chỉ bồi thường theo hạn mức tham gia bảo hiểm Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty S và Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Ch. Buộc Công ty Ch phải bồi thường cho Công ty S số tiền đồng. Được đối trừ vào số tiền theo yêu cầu của Công ty cổ phần Ch với số tiền là đồng. Công ty Ch còn phải bồi thường cho Công ty S số tiền là đồng. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 16. Bản án số 10/2019/DS-ST ngày về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê – thành phố Đà Nẵng Nguyên đơn Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H Bị đơn Công ty cổ phần thủy sản V Người liên quan Công ty Q Tóm tắt vụ án Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H với Công ty cổ phần thủy sản V thì Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ tiếp nhận và vận chuyển những lô hàng xuất khẩu của Công ty cổ phần thủy sản V từ Việt Nam đến các nước khác. Công ty H đã thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên, công ty V không thực hiện. Công ty H khởi kiện yêu cầu thực hiện thanh toán hợp đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H . Buộc Công ty Cổ phần Thủy sản V phải trả cho Công ty Cổ phần quốc tế Lôgistic H số tiền Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 17. Bản án số 06/2019/KDTM-ST ngày 8/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Lê Chân – Thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty L Bị đơn Công ty Đ Tóm tắt vụ án Công ty cổ phần L có ký Hợp đồng vận chuyển với Công Đ. Công ty L nhận cấp phương tiện Sà lan để vận chuyển hàng sắt thép. Quá trình thực hiện công ty L đã thực hiện đủ nhưng công ty Đ không tiến hành thanh toán số nợ. Công ty L khởi kiện yêu cầu công ty Đ phải thanh toán cho Công ty cổ phần L số tiền còn nợ đọng là đồng, không yêu cầu trả lãi. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty L. Buộc Công ty Đ phải thanh toán cho Công ty L số tiền còn nợ là Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 18. Bản án số 28/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa – tỉnh Đồng Nai Nguyên đơn Công ty DT L VN Bị đơn Công ty OT Tóm tắt vụ án Giữa Công ty DT L VN và Công ty OT ký kết Hợp đồng dịch vụ giao nhận theo đó Công ty OT đồng ý giao cho Công ty DT L VN làm đại diện vận chuyển hàng hóa đến các địa điểm mà Công ty OT yêu cầu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, trong năm 2018 có 03 lô hàng đã được Công ty DT L VN vận chuyển hoàn tất theo yêu cầu của OT, nhưng đến nay Công ty OT vẫn chưa thanh toán các khoản phí liên quan cho Công DT L VN. Do vậy Công ty DT L VN khởi kiện yêu cầu thực hiện. Công ty OT cho rằng Giữa Công ty DT L VN và Công ty OT không có hợp đồng dịch vụ giao nhận ngày 25/12/2016; Việc Công ty DT L VN vận chuyển hàng hóa của Công ty OT là dựa trên sự câu kết giữa nhân viên giao nhận của Công ty OT và nhân viên xuất nhập khẩu của Công ty DT L VN. Công ty OT không đồng ý với nội dung đơn khởi kiện của Công ty DT L VN Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH DT L. Buộc Công ty OT có nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty TNHH DT L số tiền Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 19. Bản án số 10/2019/KDTM-PT ngày 20/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương Nguyên đơn Công ty S- đại diện ông Ng Bị đơn Vũ Đình N Người liên quan Ông H, Ông N, Công Ty S, bà Vũ Thị S vợ ông Ng, Công ty M, Ông Q Tóm tắt vụ án Công ty S do ông Ng đại diện đã ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa là sập gỗ với ông Vũ Đình N- là cá nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa. Trong hợp đồng không ghi rõ đầy đủ mà thể hiện qua giao dịch miệng và điện thoại. Công ty S thuê ông Vũ Đình N vận chuyển 4 tấm gỗ trị giá là từ Hải Dương đến Hồ Chí Minh giao cho ông H với cước phí vận chuyển trọn gói là Ông N không giao cho ông H mà giao cho người khác. Khi giao hành ông Ng yêu cầu ông N không giao cho người khác mà giao cho ông H theo nội dung hợp đồng nhưng ông N cho rằng nếu mất hàng sẽ đền. Sau đó, ông Ng nhận người mua hàng chuyển đồng vào tài khoản công ty và đồng vào tài khoản bà S vợ ông Ng. Nhưng sau đó ông Ng kiểm tra lại thì chỉ có đồng không phải số tiền ban đầu. Công Ty M bảo không mua của công ty S mà mua của ông Q. Do đó, ông N phải có nghĩa vụ bồi thường. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty S. Hủy hợp đồng vận chuyển ngày 15/12/2017 giữa Công ty S với ông Vũ Đình N. Buộc ông N phải bồi thường thiệt hại cho Công ty S giá trị hàng hóa bị mất là Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ Đình N về việc buộc Công ty S phải trả tiền phí vận chuyển. – Bản án phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 20. Bản án số 01/2020/KDTM-ST ngày 10/ về Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền – thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Tổng Công ty B M Bị đơn Công ty P V Bên liên quan Công ty HS, Công ty HA, Công ty cổ phần vận tải biển HL Tóm tắt vụ án Tổng Công ty B M nhận bảo hiểm cho lô hàng 131 cuộn/ tấn thép cuộn cán nguội được vận chuyển từ cảng SSIT Phú Mỹ đến cảng Nghi Sơn, Thanh Hóa của Công ty H S. Lô hàng trên được chở theo Hợp đồng đại lý vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển giữa Công ty Cổ phần Vận tải biển H A và Công ty Cổ phần Đại lý Vận tải biển H L. Trên đường vận chuyển thì xảy ta va chạm tàu và toàn bộ số hàng bị chìm. Theo báo cáo giám định nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là do yếu tố con người. Căn cứ theo hợp đồng bảo hiểm, Tổng Công ty B M chấp nhận bồi thường cho Công ty H S số tiền theo 02 4 đơn bảo hiểm là đồng. Cùng ngày Công ty H S đã thế nhiệm để chuyển cho Tổng Công ty B M quyền liên quan đến lô hàng. Tổng Công ty B M có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết Buộc người vận chuyển là Công ty P V là người gây nên tổn thất phải bồi thường số tiền tương ứng tỷ lệ lỗi 42% là và tiền lãi trả chậm là đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công ty P V phải bồi hoàn khoản tiền mà Công ty B M đã bồi thường cho Công ty H S và khoản tiền lãi chậm thanh toán.
Số hiệu 242/2006/KDTM-PT Tiêu đề Bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngày ban hành 21/11/2006 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Kinh tế TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI - Bản án số242/2006/KDTM-PT Ngày 21/11/2006 V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc - NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Ông Cáp Văn Chinh; Các Thẩm phán Ông Đào Văn Tiến; Ông Nguyễn Huy Chương. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Phạm Trí Trung, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ngày 21 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số42/2006/TL-KDTM ngày 14 tháng 8 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự * Nguyên đơn Ngân hàng Công thương Việt Nam; Trụ sở 108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đại diện ông Tô Văn Chánh – Giám đốc Ngân hàng Công thương chi nhánh O, được Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm. * Bị đơn Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng; Trụ sở 201 phố Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện ông Nguyễn Thanh Hùng, được tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm. Có luật sư Phan Thị Hương Thủy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tại phiên tòa. NHẬN THẤY Ngày 07-3-1995, Công ty xuất nhập khẩu sản xuất cung ứng vật tư, bộ Giao thông vận tải nay chuyển đổi là Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng có thư bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex là đơn vị thuộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và tài khoản ngoại tệ số 362-111-37-0333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ sự bảo lãnh này, Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau 1. Ngày 29-7-1995 mở L/C số 0104106/T95LC91 trả chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí chuyển tiền với số tiền là USD. Từ ngày 23-8-1996 đến ngày 15-11-1996 đã trả được USD. Đến nay còn nợ gốc USD. 2. Khế ước số 95000634 ngày 02-10-1995 vay số tiền là đồng hai tỷ năm trăm triệu đồng và đã trả lãi trong hạn được đồng. 3. Khế ước số 9500034 ngày 29-11-1995 vày đồng ba tỷ đồng. Chưa trả được gốc và lãi quá hạn. 4. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 vay đồng sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng, hợp đồng ngoại tệ còn nợ USD. Ngày 15-4-1997 Ngân hàng Nhà nước có công văn số 109 và ngày 26-4-1997 Ngân hàng Công thương Việt Nam có công văn số 867 cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng được khoanh nợ 5 năm là được trừ lãi đã thu vào gốc là đồng, Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã trả được đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau khoanh nợ là đồng và USD. Hết thời gian khoanh nợ, ngày 02-02-2004 Ngân hàng Công thương đã đến Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex lập biên bản nhận nợ và hai bên đã xác nhận với nhau Sài Gòn Vietracimex còn nợ Ngân hàng là đồng tiền gốc và đồng tiền lãi quá hạn. Về ngoại tệ nợ gốc USD, lãi nợ quá hạn USD. Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án Hà Nội, nguyên đơn đều yêu cầu Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là người bảo lãnh cho chi nhánh Sài Gòn Vietracimex vay số tiền trên của Ngân hàng từ năm 1995 đến nay chưa thanh toán phải có trách nhiệm thanh toán cho phía ngân hàng toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn. Phía bị đơn ông Vũ Đức Toàn đại diện cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng trình bày ông nhất trí với lời khai của ông Đặng Đình Dũng – Giám đốc chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã trình bày tại Tòa án Hà Nội và xác nhận số nợ của chi nhánh Sài Gòn tại biên bản đối chất và hòa giải không thành ngày 07-9-2004. Trước kia Tổng công ty có thư bảo lãnh cho chi nhánh vay tiền của Ngân hàng Công thương, đã trả được một số và đã trả được khoanh nợ 5 năm, đến nay còn nợ đồng Việt Nam và USD và lãi suất quá hạn. Nhưng nay Tổng công ty không chấp nhận trả lãi, đề nghị Ngân hàng xem xét vì số tiền này Công ty đã bị một số cán bộ gây thất thoát, đã bị xét xử theo pháp luật và đến nay chưa bồi thường cho Công ty nên Công ty chưa có thể trả lại cho Ngân hàng và đề nghị Ngân hàng xem xét lãi suất quá hạn. Quá trình giải quyết vụ kiện bị đơn chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần hóa. Vì thế ngày 24-01-2005 Tòa án Hà Nội ra quyết định tạm đình chỉ số 02 với lý do chờ kết quả cơ quan khác giải quyết rồi mới giải quyết tiếp. Sau khi Tòa án Hà Nội có quyết định tạm đình chỉ ngày 27-01-2005 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã kháng cáo. Ngày 22-02-2006, Ngân hàng Công thương Việt Nam có đơn xin rút kháng cáo tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ngày 06-3-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và giao hồ sơ về Tòa án Hà Nội giải quyết tiếp việc kiện. Ngày 16-3-2006 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết tiếp vụ kiện trên. Tại bản án sơ thẩm số46/2006/KDTM-ST, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Căn cứ các Điều 361, 362, 388 Bộ luật dân sự năm 2005, Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và NĐ 70/CP của Chính phủ quy định án phí, xử 1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2. Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam, toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, bên thanh toán chưa trả thì phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của pháp luật. 3. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Về án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng. Tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 19-6-2006 người đại diện Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là ông Võ Nhật Thắng kháng cáo cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết của vụ án, không đúng pháp luật, đề nghị xem xét toàn bộ vụ án sơ thẩm. Ngày 20-6-2006 người đại diện Ngân hàng Công thương Việt Nam là ông Tô Văn Chánh kháng cáo cho rằng cách tính số tiền lãi trong phần quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng với các quy định pháp luật về tín dụng, đề nghị xem xét lại. XÉT THẤY Bản án dân sự số 46 ngày 2, 5 tháng 6 năm 2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là dựa trên cơ sở chứng cứ. Có việc hai bên ký kết các hợp đồng tín dụng được lập dưới hình thức khế ước nhận nợ, gồm 03 khế ước. 1. Khế ước số 9500634 ngày 02-10-1995 số tiền vay nợ là 2,5 tỷ đồng. Đã trả được 625 triệu đồng còn nợ 1,875 tỷ đồng. 2. Khế ước nhận nợ số 9500934 số tiền là 3 tỷ đồng chưa trả. 3. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 số tiền là 1,5 tỷ đồng chưa trả. Ngoài ra 03 khế ước nhận nợ trên còn một khoản nợ của thư tín dụng là USD đã trả USD còn nợ USD. Việc đối chiếu các khoản nợ nêu trên đã được hai bên bàn bạc và thống nhất với nhau trong các buổi làm việc được lập thành biên bản có trong hồ sơ. Và tại các biên bản hòa giải không thành cũng đều có ghi rõ các khoản nợ đó. Từ đó mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định buộc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn khoản tiền còn nợ cả gốc và lãi. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phía bị đơn đã phản bác lại quyết đinh của án sơ thẩm cụ thể những vấn đề sau Thứ nhất là về chủ thể trong quan hệ dân sự phía bị đơn cho rằng các văn bản bảo lãnh của Tổng công ty chỉ bảo lãnh cho đến hết thời hạn khi mà công ty đã chuyển sang hợp nhất là ngày 27-11-1995. Còn các khế ước ký sau ngày đó là không có hiệu lực. Vấn đề nữa là đối với việc bảo lãnh thư tín dụng không thuộc trong diện bảo lãnh của văn bản bảo lãnh 142 của Tổng công ty đối với chi nhánh, cho nên Tổng công ty không chịu trách nhiệm. Xét thấy trong quan hệ về việc dân sự trong vụ án này giữa Tổng công ty và công ty chi nhánh phải được xét theo nguyên tắc thực hiện của Luật Doanh nghiệp năm 1995. Luật có hiệu lực từ 20-4-1995. Tại Điều 19 của luật có quy định – chi nhánh của doanh nghiệp Nhà nước không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với chi nhánh của doanh nghiệp. Vậy thì mọi quy định của Tổng công ty đối với chi nhánh mà trái với quy định của điều luật đều không được pháp luật thừa nhận – mà chỉ có giá trị trong nội bộ của Tổng công ty mà thôi. Đối chiếu với trường hợp cụ thể này thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là bị đơn trong vụ án này phải chịu trách nhiệm dân sự với mọi trường hợp của chi nhánh trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình, còn mọi quy định về trách nhiệm mà chi nhánh làm sai thì chi nhánh chịu trách nhiệm đối với Tổng công ty. Từ phân tích trên thấy án sơ thẩm xác định Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu trách nhiệm trả nợ gốc đối với Ngân hàng Công thương chi nhánh I thành phố Hồ Chí Minh về cả 03 khế ước và khoản nợ theo thư tín dụng là đúng vì các khế ước và thư tín dụng đều được lập kể từ sau ngày Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1999 có hiệu lực thi hành. Ngoài việc quy định tại Điều 19 của Luật doanh nghiệp Nhà nước đã viện dẫn ở trên thì nay Tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên vì tại Điều 8 Nghị đình số 187/2004 ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần của Chính phủ có quy định tại Điều 8 Nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty cổ phần được chuyển đổi từ Công ty Nhà nước “1. … 2. Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để tổ chức sản xuất, kinh doanh kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của Công ty Nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.” Thứ hai xét về nội dung để quy kết có trách nhiệm trả nợ thì thấy Tại phiên tòa cũng như những chứng cứ mà phía bị đơn xuất trình đều đã được xem xét tại phiên tòa. Cụ thể các khế ước nhận nợ là đều có, có việc chi nhánh đã nhận tiền vay bằng séc. Sau đó nhập về quỹ của Công ty và tiếp đó chuyển về Ngân hàng Công thương chi nhánh IV. Tiếp đó chuyển trả nợ vay về Ngân hàng Công thương chi nhánh I, nhưng tất cả số tiền chuyển trả theo cách lập phiếu ủy nhiệm chi, nhưng là chuyển trả vào khoản nợ vay trước đó. Cụ thể khi vay thì vay từ tài khoản có ký hiệu …B, khi trả thì chuyển về tài khoản có ký hiệu …A, hai tài khoản này khác nhau nên không được coi là đã trả nợ xong, vì trên thực tế thì chi nhánh còn nợ Ngân hàng Công thương chi nhánh I nhiều món nợ trước đó chưa trả. Vì theo nghiệp vụ ngân hàng quy định mỗi khế ước vay đều có mã số tài khoản của khế ước đó nên khi vay ở khế ước nào thì khi trả phải trả đúng vào khế ước đó mới được công nhận là có trả. Về khoản thanh toán khoản tiền nợ mở thư tín dụng Xem xét trên thực tế thì Ngân hàng đã thanh toán trả chủ hàng Hàn Quốc toàn bộ số tiền theo như hợp đồng. Còn phía Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex mới thanh toán trả về cho Ngân hàng 03 phiếu theo như Ngân hàng đã xuất trình. Nay phía bị đơn chỉ chứng minh được mới chuyển trả tiền về đến Ngân hàng Công thương IV nhưng cũng vẫn chưa đủ, nên không có căn cứ là đã thanh toán xong mà chỉ có căn cứ như án sơ thẩm đã quyết về khoản nợ này là chính xác. Căn cứ vào việc chứng minh rằng những chứng cứ mà phía nguyên đơn xuất trình thì thấy việc thừa nhận của bị đơn trước đây trong quá trình xây dựng hồ sơ trong các lời khai và trong các buổi hòa giải đều thừa nhận là còn nợ các khoản tiền theo như án sơ thẩm đã quy kết là hoàn toàn đúng. Về khoản tiền lãi bản án sơ thẩm đã căn cứ vào đề nghị của phía nguyên đơn trên cơ sở tại các đơn khởi kiện và các văn bản mà phía ngân hàng đã dựa trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước để tính mức lãi suất là có căn cứ nay phía Ngân hàng đề nghị được tính với mức lãi suất cao hơn theo một mức như ở tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm là không thể chấp nhận được mà cần giữ nguyên khoản tiền lãi như án sơ thẩm đã quyết định. Bởi các lẽ trên, Căn cứ vào khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn và đơn kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm. - Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. - Căn cứ các Điều 361, 362, 363, 388 Bộ luật dân sự năm 2005. - Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và Nghị định 70 của Chính phủ quy định về án phí. 1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2. Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam toàn bộ số tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng, tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám mươi ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng. Kể từ ngày bản có có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong bản án tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành. 3. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Về án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng. Ngân hàng Công thương Việt Nam được lấy lại dự phí kháng cáo đã nộp đồng Mười lăm triệu đồng tại tài khoản số kho bạc Hà Nội của Phòng thi hành án dân sự Hà Nội. Các đương sự kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm dân sự kinh tế mỗi đương sự là đồng. Được trừ vào khoản tiền dự phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007395 ngày 26-6-2006 và biên lai số 007389 ngày 19-6-2006 của Phòng thi hành án thành phố Hà Nội. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận - TAND thành phố Hà Nội - VKSNDTC Viện PT1 - VKSND thành phố Hà Nội - CQTHADS Hà Nội - Nguyên đơn theo đ/c - Bị đơn theo đ/c - Lưu 2b ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Cáp Văn Chinh Đã ký
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNHBẢN ÁN 11/2022/DS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNGNgày 29 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2022/TLST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-DS ngày 19 tháng 9 năm 2022 giữa- Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần S;Địa chỉ Lầu x, xyz - ABC Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường S, Quận D, Thành phố Hồ Chí đại diện theo pháp luật Bà Nguyễn Đức Thạch Đ, chức vụ Tổng Giám đại diện theo ủy quyền Ông Nguyễn Đăng D, chức vụ Giám đốc Ngân hàng TMCP S chi nhánh Thái Bình theo quyết định v/v ủy quyền ký hợp đồng, thỏa thuận, văn bản và tham gia tố tụng số 3161/2021/QĐ-PL ngày 27/12/2021.Người được ủy quyền lại Ông Phan Thanh L, chức vụ Chuyên viên kiểm soát rủi ro Ngân hàng TMCP S chi nhánh Thái Bình; địa chỉ Số K Trần Thái Tông, tổ V, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình theo giấy ủy quyền số 02/2022/GUQ-CNTB ngày 31 tháng 5 năm 2022.- Bị đơn Chị Lưu Thị Vân H, sinh năm 1981; địa chỉ Thôn Th, xã Th, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.Ông L có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị H vắng mặt.NỘI DUNG VỤ ÁN* Tại đơn khởi kiện đề ngày 31 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bàyNgày 05 tháng 8 năm 2022, chị Lưu Thị Vân H có ký với Ngân hàng thương mại cổ phần S sau đây gọi tắt là Ngân hàng - Chi nhánh Thái Bình Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng - được gọi chung là Hợp đồng. Căn cứ thu nhập của chị H, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân, ngày chốt thông báo giao dịch là ngày 22 hàng tháng. Lãi suất trong hạn tại thời điểm làm thẻ là 2,6%/tháng, lãi suất quá hạn là 150% của lãi suất trong hạn, lãi được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm khác nhau. Theo Hợp đồng, chị H phải chịu các khoản phí theo quy định tại Điều 25 của Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, chị H đã thực hiện giao dịch rút tiền mặt tại máy ATM với tổng số tiền là quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến ngày 22 tháng 10 năm 2021, chị H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền đồng. Số tiền đồng được thanh toán áp dụng theo Điều 21 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng, cụ thể như sau “Điều 21. Thứ tự ưu tiên thanh toán Trừ trường hợp Sacombank có quy định khác, việc thanh toán sẽ được áp dụng theo thứ tự như saua Các khoản phí và/ hoặc lãi của kỳ trước; b Giao Dịch Rút Tiền Mặt/tương đương Rút Tiền Mặt của kỳ trước; c Giao Dịch Mua Hàng Hóa/Thanh Toán Thẻ Trực Tuyến của kỳ trước; d Các khoản phí và/ hoặc lãi trong kỳ; e Giao Dịch Rút Tiền Mặt/tương đương Rút Tiền Mặt trong kỳ; f Giao Dịch Mua Hàng Hóa/Thanh Toán Thẻ Trực Tuyến trong kỳ”. Từ ngày 22 tháng 01 năm 2022 đến nay, chị H không thanh toán cho Ngân hàng bất cứ khoản tiền nào khác. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng chị H vẫn không có thiện chí trả nợ. Do chị H vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên theo quy định của Ngân hàng sau 3 kỳ thông báo giao dịch liên tiếp, chị H không thực hiện việc trả nợ thì Ngân hàng sẽ chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá vậy, từ ngày 22 tháng 01 năm 2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ chị H còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 29 tháng 9 năm 2022, chị H còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc là đồng nợ phát sinh đầu kỳ 22 tháng 01 năm 2022 + giao dịch + phí trễ hạn + lãi + phí - thanh toán và nợ lãi quá hạn tiền lãi quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc đồng với lãi suất quá hạn là 3,9%/1 tháng 2,6%*150% từ ngày ngân hàng chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ chị H còn thiếu sang nợ quá hạn cho đến ngày chị H thanh toán tiếp theo và lãi tiếp tục phát sinh trên dư nợ gốc còn tiền nợ lãi quá hạn đồng yêu cầu chị H thanh toán cho Ngân hàng bao gồm tiền lãi từ ngày 22/01/2022 đến ngày 29/9/2022, có công thức tính như sau Lãi 1 ngày là đồng x 3,9%/30 = đồng. Từ ngày 22/01/2022 đến ngày 22/02/2022 có 31 ngày với số tiền lãi là x 31 = đồng. Từ ngày 22/02/2022 đến ngày 22/03/2022 có 28 ngày với số tiền lãi là x 28 = đồng. Từ ngày 22/03/2022 đến ngày 22/04/2022 có 31 ngày với số tiền lãi là x 31 = đồng. Từ ngày 22/04/2022 đến ngày 22/05/2022 có 30 ngày với số tiền lãi là x 30 = đồng. Từ ngày 22/05/2022 đến ngày 22/06/2022 có 31 ngày với số tiền lãi là x 31 = đồng. Từ ngày 22/06/2022 đến ngày 21/07/2022 có 29 ngày với số tiền lãi là x 29 = đồng. Từ ngày 22/07/2022 đến ngày 22/08/2022 có 31 ngày với số tiền lãi là x 31 = đồng. Từ ngày 22/08/2022 đến ngày 22/09/2022 có 31 ngày với số tiền lãi là x 31 = đồng. Từ ngày 22/09/2022 đến ngày 29/09/2022 có 7 ngày với số tiền lãi là x 7 = đồng.Đến nay Ngân hàng đề nghị Toà giải quyết Buộcc chị H phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm 29 tháng 9 năm 2022 là đồng trong đó nợ gốc là đồng, lãi quá hạn là đồng. Chị H có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh sau ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.* Chị Lưu Thị Vân H đã được Tòa án triệu tập để trình bày quan điểm của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tham gia phiên tòa, nhưng chị H đều vắng mặt không lý do. Vì vậy chị H không thể hiện quan điểm của mình trong vụ án.* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, Điều 119, Điều 280, Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 16 Điều 4; Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc chị H phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền đồng trong đó nợ gốc là đồng, lãi quá hạn là đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, chị Lưu Thị Vân H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng. Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp ĐỊNH CỦA TÒA ÁNSau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định[1] Về quan hệ tranh chấp và Tòa án có thẩm quyền giải quyết Ngân hàng thương mại cổ phần S khởi kiện yêu cầu chị Lưu Thị Vân H trả nợ gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết, chị Lưu Thị Vân H cư trú tại xã Th, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Căn cứ quy định khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.[2] Về thủ tục tố tụng Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.[3] Nội dung[ Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy Thỏa thuận của Ngân hàng và chị H trong Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng ngày 05 tháng 8 năm 2020 được ký kết trên cơ sở tự nguyện, nội dung hợp đồng không trái đạo đức xã hội, thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định tại Điều 116, Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên xác định Hợp đồng là hợp pháp.[ Sau khi được cấp thẻ tín dụng, chị H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền đồng. Theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng vào ngày 22 hàng tháng, chị H phải thanh toán nợ cho Ngân hàng nhưng đến ngày 22 tháng 01 năm 2022 chị H mới thanh toán cho Ngân hàng được số tiền đồng. Từ ngày 22/01/2022 đến nay chị H không trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc, lãi theo thỏa thuận. Do chị H vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định của Ngân hàng trong 3 kỳ thông báo giao dịch liên tiếp 22/11/2021;22/12/2021; 22/01/2022 nên Ngân hàng chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn tính từ ngày 22/01/2022 với mức lãi suất các bên thỏa thuận bằng 150% mức lãi trong hạn. Chị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự; vi phạm Điều 19, Điều 24 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Điều 24 quy định “Việc không thanh toán ít nhất Số Tiền Tối Thiểu của Chủ Thẻ cho đến kỳ TBGD tiếp theo sẽ tạo nên sự vi phạm theo Hợp Đồng. Khi vi phạm xảy ra, Chủ Thẻ hiểu và đồng ý rằng Sacombank có thể thực hiện một hoặc nhiều hành động sau Tạm ngưng hoặc Chấm Dứt sử dụng Thẻ và thu hồi toàn bộ Dư Nợ; Áp dụng lãi suất quá hạn đối với toàn bộ Dư nợ theo quy định của Sacombank. Sau 75 ngày kể từ ngày lập TBGD hoặc sau 03 ba kỳ TBGD liên tiếp, nếu Chủ Thẻ không thanh toán hoặc thanh toán ít hơn Số Tiền Tối Thiểu, Sacombank sẽ chấm dứt việc sử dụng thẻ của Chủ Thẻ”.[ Về số tiền gốc và lãi theo yêu cầu của Ngân hàng phù hợp với Điều 19; Điều 23 và Điều 24 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng “ Chủ thẻ phải thanh toán cho Sacombank số tiền đến hạn hoặc số tiền tối thiểu vào hoặc trước ngày đến hạn được ghi trên thông báo giao dịch”; chi tiết Điều 23 quy định “Cách tính lãi Chủ thẻ đồng ý thanh toán lãi phát sinh trên thẻ. Lãi được tính như sau a Đối với giao dịch mua hàng hóa/thanh toán thẻ trực tuyến không áp dụng với thẻ nội địa, phí, lệ phí Nếu chủ thẻ không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ Số Tiền Đến Hạn vào hoặc trước ngày đến hạn, chủ thẻ phải thanh toán lãi cho Sacombank đối với tất cả các khoản nợ được thể hiện trong Thông báo giao dịch hiện tại và đối với bất kỳ khoản nợ nào phát sinh sau đó trên Thẻ cho đến khi toàn bộ các khoản nợ đến hạn ghi trong TBGD mới nhất được thanh toán vào hoặc trước ngày đến hạn. Lãi được tính từ ngày giao dịch cho đến hết ngày việc thanh toán được thực hiện đầy đủ. Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số tiền đến hạn vào hoặc trước ngày đến hạn theo TBGD thì chủ thẻ được miễn lãi đối với tất cả các giao dịch tại TBGD hiện tại. Giao dịch rút tiền mặt/tương đương rút tiền mặt Lãi được tính từ ngày chủ thẻ thực hiện giao dịch cho đế hết ngày chủ thẻ thanh toán toàn bộ số tiền đã sử dụng/đã rút. Sacombank có quyền sửa đổi mức lãi suất trong từng thời kỳ theo quyết định của mình mà không cần thông báo trước cho chủ thẻ”. Do vậy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc buộc chị H phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm số tiền gốc là đồng, lãi quá hạn là đồng; tổng cộng là đồng và chị H có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh sau ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 280 Bộ luật Dân sự 2015 và các Điều 7, 8, 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.[ Về án phí dân sự sơ thẩm Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNHCăn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 117, 119, 280, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S Buộc chị Lưu Thị Vân H phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc, nợ lãi phát sinh theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng ngày 05/8/2020 số tiền là Nợ gốc là đồng, nợ lãi quá hạn tính đến ngày 29/9/2022 là đồng, tổng cộng đồng Ba mươi triệu hai trăm bảy mươi hai nghìn tám trăm bốn mươi hai đồng.Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm chị Lưu Thị Vân H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này cho Ngân hàng. Lãi suất mà chị Lưu Thị Vân H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần S sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại cổ phần S.[2] Về án phí Buộc chị Lưu Thị Vân H phải nộp Một triệu năm trăm mười ba nghìn đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0001259 ngày 25 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.[3] Về quyền kháng cáo Ngân hàng thương mại cổ phần S, chị Lưu Thị Vân H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG BẢN ÁN 43/2018/DS-ST NGÀY 07/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VAY TÀI SẢN Ngày 07 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 12/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 01 năm 2018 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2018, giữa Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần V; trụ sở chính Số 35, quận K, Thành phố H; địa chỉ chi nhánh Nam Bình Dương Số 10, KCN A, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ông Bùi Tá H, sinh năm 1983; trú tại 3/2 ấp B, xã T, huyện T1, tỉnh Đ – Là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo Quyết định ủy quyền ngày 02/01/2018. Có mặt. Bị đơn Ông Lâm Thành C, sinh năm 1984 và bà Trần Thị Ngọc P, sinh năm 1988; cùng trú tại 33 Lô V, Phường 8, Quận 4, Thành phố M. Vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Nguyễn Thị Thiên L, sinh năm 1972; trú tại 132/1 ấp G, xã G3, huyện N, tỉnh N1. Vắng mặt. NỘI DUNG VỤ ÁN Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/01/2018, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày Thực hiện việc ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần V viết tắt là Ngân hàng V, ngày 27/4/2016 Ngân hàng thương mại cổ phần V – Chi nhánh Nam Bình Dương có ký hợp đồng tín dụng vay tài sản với vợ chồng ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P số 485/2016/8510081/HĐTD. Theo hợp đồng, Ngân hàng thương mại cổ phần V – Chi nhánh Nam Bình Dương cho ông C, bà P vay số tiền đồng, mục đích vay là để mua xe ô tô con, thời hạn vay là 84 tháng, lãi suất trong hạn là 9,5%/năm cố định trong 24 tháng đầu năm kể từ thời điểm giải ngân lần đầu. Sau đó, áp dụng lãi suất thả nổi, điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần theo chính sách lãi suất của ngân hàng áp dụng trong từng thời kỳ, lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn. Trả nợ vào ngày 10 tây hàng tháng, bắt đầu từ ngày 10/6/2016, ngày trả nợ gốc cuối cùng là ngày 27/4/2023 theo lịch cụ thể hàng tháng ông C, bà P trả số tiền vay là đồng. Để đảm bảo khoản nợ trên, ông C, bà P và Ngân hàng V – Chi nhánh Nam Bình Dương ký kết hợp đồng thế chấp tài sản số 409/2016/8510081/HĐBĐ ngày 27/4/2016, tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô con hiệu Chevrolet Aveo LT, số khung RllSF69YDGH933520, số máy F15S3160110011, biển số do Phòng CSGT-ĐS Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/4/2016 cho ông Lâm Thành C. Tài sản thế chấp được đăng ký giao dịch bảo đảm vào ngày 27/3/2008 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Đà Nẵng theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông C, bà P đã thanh toán được cho Ngân hàng V tổng số tiền nợ vay là đồng, trong đó số tiền vay gốc là đồng, số tiền lãi là đồng từ ngày 13/6/2016 đến ngày 21/7/2017 thì ngưng không thanh toán cho đến nay nên dẫn đến khoản nợ vay bị quá hạn và chuyển thành nợ xấu. Tổng dư nợ tạm tính đến hết ngày 07/6/2018 là đồng, trong đó nợ gốc là đồng, nợ lãi trong hạn đồng và lãi quá hạn là đồng. Nay Ngân hàng thương mại cổ phần V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P thanh toán cho Ngân hàng V tổng số tiền là đồng, trong đó nợ gốc là đồng, nợ lãi trong hạn đồng và lãi quá hạn là đồng. Tiền lãi phát sinh được tiếp tục tính theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD kể từ ngày 08/6/2018 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Trường hợp ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P không tự nguyện thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng thương mại cổ phần V được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm hợp pháp của ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P là chiếc xe ôtô hiệu Chevrolet AveoLT, biển số để thu hồi nợ. Bị đơn – ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thiên L vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật tố tụng xem như đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình. Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định [1] Về tố tụng Toà án đã tiến hành thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại các Điều 175, 177, 196, 208 và Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng bị đơn ông Lâm Thành C, bà Trần Thị Ngọc P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thiên L vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy, việc bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được xem là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật tại Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. [2] Về quan hệ tranh chấp Căn cứ giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016 và hợp đồng thế chấp tài sản số 409/2016/8510081/HĐBĐ ngày 27/4/2016 được ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần V với ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P thể hiện nội dung Ngân hàng thương mại cổ phần V có ông C, bà P vay số tiền đồng, mục đích vay là để mua xe ô tô con, thời hạn vay là 84 tháng, có thế chấp tài sản là chiếc xe ô tô con hiệu Chevrolet Aveo LT, số khung RllSF69YDGH933520, số máy F15S3160110011, biển số nên quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng tín dụng vay tài sản theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005 nay là Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015. [3] Về thẩm quyền giải quyết Căn cứ đơn khởi kiện và nội dung thỏa thuận tại điểm b mục 8 Hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm b Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. [4] Về nội dung Xét hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016 được giao kết giữa Ngân hàng V với ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P đã thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận giữa hai bên. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông C, bà P đã thanh toán được cho Ngân hàng V được số tiền vay gốc là đồng, số tiền lãi là đồng. Kể từ ngày 21/7/2017 đến thời điểm Ngân hàng V khởi kiện, ông C, bà P không thanh toán tiếp số tiền nợ đến hạn, như vậy ông C, bà P đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng V. Do đó, nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần V khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P phải thanh toán cho Ngân hàng V tổng số tiền là đồng, trong đó nợ gốc là đồng, nợ lãi trong hạn đồng và lãi quá hạn là đồng là có cơ sở chấp nhận. Xét hợp đồng thế chấp tài sản số 409/2016/8510081/HĐBĐ ngày 27/4/2016 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần V với ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P được ký kết với người có thẩm quyền, đúng thủ tục và được đăng ký giao dịch bảo đảm nên phát sinh hiệu lực. Theo đó, ông C và bà P đã dùng tài sản là chiếc xe ô tô con hiệu Chevrolet Aveo LT, số khung RllSF69YDGH933520, số máy F15S3160110011, biển số do ông Lâm Thành C đứng tên trên giấy đăng ký xe ô tô để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ. Nay ông C, bà P không thanh toán nợ nên Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mãi tài sản đảm bảo để thanh toán nghĩa vụ trả nợ. [4] Tiền lãi được tiếp tục tính kể từ ngày 08/6/2018 cho đến khi ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P trả xong các khoản nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016. [5] Đối với hợp đồng cho vay tiền ngày 23/7/2017 giữa bà Nguyễn Thị Thiên L với ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P do nguyên đơn cung cấp có thể hiện nội dung “...Ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P đồng ý thế chấp chiếc xe ô tô con hiệu Chevrolet Aveo LT, số khung RllSF69YDGH933520, số máy F15S3160110011, biển số và giao toàn bộ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu cho bà Nguyễn Thị Thiên L…”. Xét quá trình giải quyết vụ án, ông Lâm Thành C, bà Trần Thị Ngọc P và bà Nguyễn Thị Thiên L đều vắng mặt, không cung cấp chứng cứ chứng minh về tài sản thế chấp nên không xem xét trong vụ án này, nếu các bên có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác. [6] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An là phù hợp. [7] Về án phí dân sự sơ thẩm Bị đơn ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH Căn cứ - Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm b Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; - Điều 471, Điều 355 Bộ luật Dân sự năm 2005 nay là Điều 463, Điều 299 Bộ luật Dân sự năm 2015. - Điều 91 và Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần V về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng vay tài sản với bị đơn ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P. Buộc Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần V số tiền còn nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016 là đồng Ba trăm hai mươi bảy triệu, ba trăm lẻ chín nghìn, ba trăm năm mươi bảy đồng, trong đó nợ gốc là đồng, nợ lãi trong hạn đồng và lãi quá hạn là đồng. Trường hợp ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P không thanh toán nợ, Ngân hàng thương mại cổ phần V được quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản đảm bảo là chiếc xe ôtô con hiệu Chevrolet Aveo LT, số khung RllSF69YDGH933520, số máy F15S3160110011, biển số do ông Lâm Thành C đứng tên trên giấy đăng ký xe ôtô theo hợp đồng thế chấp tài sản số 409/2016/8510081/HĐBĐ ngày 27/4/2016. Tiền lãi được tiếp tục tính kể từ ngày 08/6/2018 cho đến khi ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P trả xong các khoản nợ mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 485/2016/8510081/HĐTD ngày 27/4/2016. 2. Án phí dân sự sơ thẩm Ông Lâm Thành C và bà Trần Thị Ngọc P phải chịu đồng Mười sáu triệu, ba trăm sáu mươi lăm nghìn, bốn trăm sáu mươi bảy đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần V đồng Bảy triệu, tám trăm ba mươi sáu nghìn, chín trăm sáu mươi sáu đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0018410 ngày 16/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. 3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Nguồn
bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng